Tăng trưởng dân số Quá_tải_dân_số

Lịch sử

Dữ liệu từ bài 'Dân số thế giới'Dữ liệu từ bài 'Dân số thế giới'

Để thể hiện rõ hơn chủ đề quá tải dân số, có thể là có ích khi xem xét dân số thế giới hiện nay trong bối cảnh dân số loài người từ buổi đầu văn minh tới hiện tại. Văn minh bắt đầu từ khoảng 10,000 năm trước, trùng với:

  • sự rút lui cuối cùng của băng hà sau sự kết thúc của giai đoạn băng hà gần nhất
  • sự khởi đầu của "Cách mạng Đồ đá mới" khi có một sự thay đổi trong hoạt động của con người từ "săn bắn hái lượm" về phía hoạt động nông nghiệp ban sơ.
  • buổi đầu nông nghiệp, khoảng năm 8,000 trước Công Nguyên, dân số thế giới xấp xỉ 5 triệu người[4].
  • Sự thay đổi nhỏ về dân số trong hàng nghìn năm chấm dứt vào khoảng năm 1,000 trước Công Nguyên.
  • Tăng trưởng vững chắc bắt đầu vào khoảng năm 1,000 trước công nguyên sau đó là ổn định (hay có thể tăng đỉnh) khoảng năm 0., với 200 tới 300 triệu người.
  • Khuynh hướng cho 800 - 900 năm tiếp theo từ khoảng năm 800 của Công Nguyên trở về sau là tăng chậm nhưng ổn định, dù có sự ngắt quãng bởi các bệnh dịch (đáng kể nhất là Tử thần Đen ở thế kỷ XIV).
  • Tăng trưởng nhanh hơn từ khởi đầu cuộc Cách mạng Công nghiệp khoảng năm 1700. Ước tính khoảng 1 tỷ người năm 1804.
  • Hơn 6.7 tỷ[5] Dân số thế giới tăng gấp 3 lần vào năm 2009 so với xấp xỉ 2.3 tỷ hay ít hơn[6] năm 1939, dù có thiệt hại nhân mạng trong Thế Chiến II (một ước tính ở mức cao khoảng 72 triệu người).
  • Tăng mạnh từ khoảng năm 1950 trùng với sự tăng vọt trong sản xuất thực phẩm nhờ việc công nghiệp hoá nông nghiệp (được gọi là cuộc Cách mạng Xanh). Dự báo dân số tiếp tục tăng đến 8.9 tỷ người, 9.2 billion, hay 9.5 tỷ hay thậm chí 11 tỷ năm 2050.

Rõ ràng, các biểu đồ trên cho thấy một sự phát triển nghiêng âm bất thường. Trong trường hợp này nó có nghĩa sau nhiều nghìn năm ít thay đổi về dân số, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, đã có một giai đoạn tăng dân số nhanh liên tục ở mức độ đặc biệt cao và chưa từng có.

Dự đoán cho năm 2050

Các báo cáo của Liên hiệp quốc, như World Population Prospects viết:

  • Dân số thế giới hiện tăng xấp xỉ 74 triệu người mỗi năm. Nếu tỷ suất sinh hiện nay tiếp diễn, năm 2050 tổng dân số thế giới sẽ là 11 tỷ người, với 169 triệu người tăng thêm mỗi năm. Tuy nhiên, tỷ suất sinh đã giảm trong nhiều thập kỷ, và các con số cập nhật của Liên hiệp quốc dự đoán dân số thế giới sẽ đạt 9.2 tỷ người khoảng năm 2050.[7][8] Đây là con số trung bình với giả thiết mức giảm tỷ suất sinh từ 2.5 xuống còn 2.
  • Hầu như tất cả số tăng đều diễn ra tại các vùng kém phát triển, con số 5.3 tỷ người hiện đang sống tại các nước kém phát triển sẽ tăng thành 7.8 tỷ năm 2050. Trái lại, dân số tại những vùng phát triển hơn hầu như sẽ không thay đổi, ở mức 1.2 tỷ. Dân số thế giới dự đoán sẽ tăng 40% lên 9.1 tỷ người. Ngoại trừ dân số Mỹ dự đoán sẽ tăng 44% từ 305 triệu năm 2008 lên 439 năm 2050.[9]
  • Giai đoạn 2000-2005, tỷ suất sinh trung bình của thế giới là 2.65 trẻ em trên mỗi phụ nữ, khoảng bằng nửa mức giai đoạn 1950-1955 (5 trẻ em trên mỗi phụ nữ). Ở mức trung bình, tỷ suất sinh của thế giới dự đoán sẽ giảm hơn nữa xuống 2.05 trẻ em trên mỗi phụ nữ.
  • Trong giai đoạn 2005-2050, chín quốc gia dự đoán sẽ chiếm một nửa số tăng dân số thế giới: Ấn Độ, Pakistan, Nigeria, Cộng hoà Dân chủ Congo, Bangladesh, Uganda, Hoa Kỳ, Ethiopia, và Trung Quốc, được liệt kê theo mức độ đóng góp vào tăng trưởng dân số.
  • Tuổi thọ khi sinh toàn cầu, được ước tính đã tăng từ 46 giai đoạn 1950-1955 tới 65 giai đoạn 2000-2005, và sẽ tiếp tục tăng để đạt 75 tuổi giai đoạn 2045-2050. Tại các vùng phát triển hơn, dự đoán mức tăng từ 75 tuổi hiện nay lên 82 tuổi ở giữa thế kỷ. Với các quốc gia kém phát triển, nơi tuổi thọ hiện tại chỉ dưới 50, tuổi thọ dự báo sẽ tăng lên 66 tuổi trong giai đoạn 2045-2050.
  • Dân số của 51 quốc gia hay khu vực, gồm Đức, Italia, Nhật Bản và hầu hết các quốc gia kế tục của Liên Xô cũ, dự đoán vào năm 2050 sẽ thấp hơn mức năm 2005.
  • Trong giai đoạn 2005-2050, con số người di cư thực trên thế giới tới các vùng phát triển hơn dự đoán là 98 triệu người. Vì mức tử dự đoán sẽ cao hơn mức sinh tại các vùng phát triển ở mức 73 triệu người trong giai đoạn 2005-2050, gia tăng dân số tại các vùng này sẽ chủ yếu bởi di cư.
  • Năm 2000-2005, con số nhập cư thực tại 28 quốc gia hoặc đã giúp ngăn chặn suy giảm dân số hoặc ít nhất đã giúp tăng dân số tự nhiên (sinh trừ tử). Các quốc gia này gồm, Áo, Canada, Croatia, Đan Mạch, Đức, Italia, Bồ Đào Nha, Qatar, Singapore, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Các tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất và Anh Quốc.[10]
  • Các tỷ lệ sinh hiện đang giảm ở mức độ thấp tại các nước đang phát triển, trong khi dân số thực tại nhiều nước phát triển sẽ giảm nếu không có nhập cư.[11]
  • Tới năm 2050 (số trung bình), Ấn Độ sẽ có 1.7 tỷ người, Trung Quốc 1.4 tỷ, Hoa Kỳ 400 triệu, Indonesia 297 triệu, Pakistan 292 triệu, Nigeria 289 triệu, Bangladesh 254 triệu, Brasil 254 triệu, Cộng hoà Dân chủ Congo 187 triệu, Ethiopia 183 triệu, Philippines 141 triệu, México 132 triệu, Ai Cập 121 triệu, Vietnam 120 triệu, Nga 108 triệu, Nhật Bản 103 triệu, Iran 100 triệu, Thổ Nhĩ Kỳ 99 triệu, Uganda 93 triệu, Tanzania 85 triệu, và Kenya 85 triệu.

2050

  • châu Phi - 1.9 tỷ
  • châu Á - 5.2 tỷ
  • châu Âu - 664 triệu
  • Mỹ La tinh & Caribbean - 769 triệu
  • Bắc Mỹ - 445 triệu[12]

Di chuyển nhân khẩu

Các dự báo dân số thế giới của Liên hiệp quốc theo địa điểm.
Bài chi tiết: Chuyển đổi dân số

Lý thuyết chuyển đổi dân số, tuy chưa được chứng minh để áp dụng cho tất cả các vùng trên thế giới, cho rằng, khi tiêu chuẩn sốngtuổi thọ tăng, kích thước gia đìnhtỷ suất sinh giảm. Các yếu tố được chỉ ra gồm các yếu tố xã hội như tuổi kết hôn, sự gia tăng mong ước của nhiều phụ nữ về nghề nghiệp bên ngoài việc nuôi dạy con và công việc gia đình, và sự giảm nhu cầu trẻ em trong môi trường công nghiệp hoá. Yếu tố sau cùng này xuất phát từ thực tế rằng trẻ em đảm đương khá nhiều công việc trong các xã hội nông nghiệp ở tầm mức nhỏ, và làm việc ít hơn trong những xã hội công nghiệp; điều này đã được nêu ra để giải thích sự sụt giảm tỷ suất sinh tại các vùng công nghiệp.

Một phiên bản khác của chuyển đổi dân số là của Virginia Abernethy trong Chính trị dân số, khi bà cho rằng chuyển đổi dân số diễn ra chủ yếu tại các quốc gia nơi phụ nữ có một vị trí đặc biệt (xem Lý thuyết cơ hội sinh sản). Tại các quốc gia theo phụ hệ mạnh, nơi bà cho rằng phụ nữ ít có các quyền đặc biệt, tiêu chuẩn sống cao thường đi cùng tăng trưởng dân số.

Nhiều quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng dân số cao nhưng có tỷ suất sinh thấp bởi sự tăng trưởng dân số cao trong quá khứ khiến tuổi nhân khẩu thường thấp, vì thế dân số vẫn tăng khi thế hệ trẻ đến tuổi sinh sản.[nghiên cứu chưa công bố?]

"Bẫy nhân khẩu" là một ý tưởng do Maurice King đề xuất, ông cho rằng hiện tượng này xảy ra khi một quốc gia có dân số lớn hơn khả năng chống đỡ của nó, không có khả năng di cư, và xuất khẩu quá ít để có thể nhập khẩu lương thực. Điều này sẽ gây ra nạn đói. Ông lấy ví dụ nhiều quốc gia hạ Sahara nơi đang ở trong hoặc sẽ rơi vào bẫy nhân khẩu, thay vì có một sự chuyển đổi dân số.[13]

Với toàn thế giới, số lượng trẻ em được sinh ra trên mỗi phụ nữ đã giảm từ 5.02 xuống 2.65 trong giai đoạn 1950 và 2005. Bảng chi tiết theo lục địa như sau:

Năm 2050, con số trẻ em dự đoán sẽ được sinh ra trên mỗi phụ nữ là 2.05. Chỉ Trung Đông & Bắc Phi (2.09) và châu Phi hạ Sahara (2.61) khi ấy sẽ có mức sinh lớn hơn 2.05.[14]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Quá_tải_dân_số ftp://ftp.fao.org/docrep/fao/009/a0750e/a0750e01.p... http://www.theaustralian.news.com.au/story/0,20867... http://www.uic.com.au/nip74.htm http://english.people.com.cn/200409/16/eng20040916... http://economics.about.com/cs/macroeconomics/a/run... http://economics.about.com/cs/macroeconomics/a/run... http://www.amazon.com/dp/0393060705 http://www.amazon.com/dp/0807085723/ http://www.atimes.com/atimes/Front_Page/HE20Aa01.h... http://www.atimes.com/atimes/South_Asia/HG21Df01.h...